Dienstag, 29. August 2017

28-8-2017 Lời Hay Ý Đẹp

                       







            

           Buông là thái độ để yên mọi sự mọi vật như nó đang là ,  và chỉ thấy nó như nó đang là thôi , chứ không cho là, phải là, sẽ là gì cả. Nếu là thật sự buông thì tánh biết rỗng lặng trong sáng  , sẽ thấy pháp một cách hoàn hảo, và tánh biết tự nhiên sẽ tự biết lúc nào nên thả lỏng, lúc nào nên dụng công, mà không cần bản ngã xen vào phân vân tính toán.   
  Viên Minh


          Mục đích của đời sống không phải để tiến đến một điều kiện tốt đẹp hơn mà là học ra được những bài học quý giá hơn về ý nghĩa của nó.Cái đúng phát xuất từ cái sai chứ không từ cái đúng lý tưởng. Cho nên hoàn thiện chính là quá trình điều chỉnh nhận thức và hành vi từ cái sai thành cái đúng.  
  Viên Minh
 

          Trí tuệ không ở trong sách, cũng không ở trong sự tích lũy hiểu biết về kinh nghiệm của người khác. Khi người ta đã thâm hiểu về chính bản thân thì đó là lúc chấm dứt đau khổ và khởi đầu của trí tuệ.  

 KRISHNAMURTI

                                                **************

        Người có trí huệ xưa nay không sống trong miệng của người khác, cũng không sống trong mắt của người khác. Gặp nhau là duyên mà không gặp cũng là duyên. Tương phùng là duyên, biệt ly cũng bởi duyên. Trần thế mênh mông đều là giữa đến và đi.

          Thế thái viêm lương” thói đời ấm lạnh không cần đón trước, nhân tình ấm nhạt, chớ đổ cho tại  ý . Thân ở trong vạn vật, tâm ở trên vạn vật. Tĩnh nghe thủy triều lên thủy triều xuống nơi biển lớn, cười ngắm nhạn bay đi nhạn bay về nơi phía trời xa.

         Xem nhẹ sự vật sự việc sự tình trong nhân gian, tự nhiên khoáng đạt giữa đất trời. Cho dù một cuộc sống hạnh phúc cũng có những chỗ chưa chu toàn, cho dù một cuộc đời thê lương lạnh lẽo cũng có những điều hạnh phúc. Để cuộc đời được tự nhiên khoáng đạt, cần học được xem nhẹ những chỗ chưa chu toàn, tùy cơ nhi hành, tất cả cái ấy gọi là tùy duyên, chính là nghe thiên mệnh mà làm hết mọi việc người có thể làm được.

Đại Kỷ Nguyên

                   
 


Freitag, 25. August 2017

25-8-2017 Chữ Duyên Trong Đạo Phật .









      Duyên vốn là từ gốc Hán có nghĩa là nguyên nhân; duyên do, duyên cớ phát sinh ra sự việc…cảm nhận về chữ Duyên có vị trí đặc biệt trong tâm cảm người Việt, trong đời sống nhân sinh, đời sống tinh cảm lứa đôi trai gái,và đặc biệt trong đời sống tu học và là thuật ngữ được sử dụng nhiều trong Phật giáo.

1.Chưa quen nhau nay được gặp nhau gọi là Hữu Duyên .

2.Muốn làm một việc gì đó giúp người khác biết về Phật pháp gọi là Kết Duyên .

3.Hay ấn tống kinh sách băng đĩa, giảng pháp cho người khác nghe gọi là Gieo Duyên .
 
4.Những gì đã đến và chưa đến với mình gọi là Nhân Duyên .

5. Thường hay làm những việc thiện giúp đỡ mọi người gọi là Thiện Duyên .

6. Thường hay làm những điều xấu ác hại người gọi là Ác Duyên .

7 Làm việc gì củng gặp phải sự trắc trở trái ý gọi là Nghịch Duyên .

8. Làm việc gì củng xuôn sẽ đúng với ý mình gọi là Thuận Duyên .
 
9. Thường hay mắc phải những tật xấu gọi là Nghiệp Duyên .

10.Có những việc mình chưa biết làm được hay không được gọi là Tùy Duyên.

11.Trong cuộc sống những điều tốt đẹp may mắn thường hay đến với mình gọi là Phước Duyên .

12.Có những điều tốt đẹp đến với mình hơn cả những gì mình mong đợi gọi là Thắng Duyên.

CHỮ DUYÊN TRONG TÌNH YÊU

1.Mới gặp nhau đã đem lòng yêu nhau gọi là Hữu Duyên .

2.Khi người đó xa cách mình cảm thấy nhớ nhung gọi là Ái Duyên .

3.Sau thời gian tìm hiểu rồi đi đến hôn nhân gọi là Nên Duyên .

4.Khi chung sống với nhau vợ nói chồng nghe gọi là Có Duyên .

5.Khi chung sống với nhau vợ nói chồng không nghe gọi là Vô Duyên .

6.Hằng ngày vợ chồng thường hay cãi nhau gọi là Nợ Duyên .

7.Mặc dù khổ đau nhưng vẫn còn chung sống với nhau gọi là Còn Duyên .

8.Sau một thời gian chung sống rồi đường ai nấy đi gọi là Hết Duyên .

9. Lấy phải một ông chồng xấu một cô vợ dữ gọi là Bạc Duyên .

10. Lấy được một ông chồng tốt một cô vợ đẹp gọi là Phúc Duyên.
.

Thích Nguyên An

                     

 


 



 

Dienstag, 22. August 2017

21-8-2017 Giản Bốn bài NGŨ NGÔN TỨ TUYỆT Của Thầy Đổ Chiêu - Đức









1.  1TƯ QUY của VƯƠNG BỘT.


      VƯƠNG BỘT ( 650-676 ), tự là Tử An. Người đất Giáng Châu Long Môn ( thụộc Hà Tân Sơn Tây hiện nay ). Ông nội là Vương Thông, hiệu là Văn Trung Tử, học giả nổi tiếng cuối đời nhà Tùy. Cha là Vương Phước Chỉ, giữ chức Thái Thường Bác Sĩ, Ung Châu Tư Công đời Đường.

      VƯƠNG BỘT cùng với Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương văn tài thi tài ngang nhau, người đời xưng là " Sơ Đường Tứ Kiệt ". Bột đứng đầu Tứ Kiệt, nổi tiếng bất hủ với bài " Đằng Vương Các Tự ", để lại một giai thoại văn chương về câu nói " Thời lai phong tống Đằng Vương Các ", và còn để lại rất nhiều ảnh hưởng cho văn học đời sau bằng các thành ngữ còn thông dụng đến hiện nay.

       Sau đây là một bài Ngũ Ngôn Tứ Tuyệt nổi tiếng của ông.

   
思歸                     TƯ QUY
長江悲已滯,       Trường Giang bi dĩ trệ,
萬里念將歸。     Vạn lí niệm tương quy.
況屬高風晚,       Huống thuộc cao phong vãn,
山山紅葉飛。     Sơn sơn hồng diệp phi.
          
王勃                             Vương Bột

      
CHÚ THÍCH :
       Câu 3 & 4 của bài nầy còn có dị bản là :

           Huống PHỤC cao SƠN VIỄN,          
況復高山遠
           Sơn sơn HOÀNG diệp phi.              
山山黃葉飛。

    HUỐNG THUỘC hay HUỐNG PHỤC gì đều có nghĩa là : Hơn nữa, Vả lại...
    CAO PHONG VÃN : là Gió thu trên cao thổi vi vút vào buổi chiều tối, còn ...
    CAO SƠN VIỄN : là Núi cao chập chùng xa xăm diệu dợi.

    BI DĨ TRỆ : là Nỗi sầu cô đọng lại như nước Trường Giang lửng lờ ( như không trôi chảy ).

    NIỆM TƯƠNG QUY : là Chỉ mới có Ý niệm sẽ quay trở về mà thôi.( Ý nói : Muốn về mà không về được ! )

    HỒNG DIỆP hay HOÀNG DIỆP gì cũng đều là lá mùa thu, và cũng đều nên thơ cả ! Có điều, người Việt ta thì hay dùng " Lá Vàng " để chỉ mùa thu, còn người Hoa thì hay dùng " Lá Đỏ ", vì họ có nhiều rừng phong đỏ thắm lúc thu về, còn ta thì lại có :

                   " Lá VÀNG trước gió sẻ đưa vèo ! "...
  hoặc thi vị hơn như Tản Đà :

                  " Trận gió thu phong cuốn lá VÀNG,
                    Lá bay hàng xóm lá bay sang....
       để rồi...
                    Hờ hững ai xui thiếp phụ chàng ! "

                  
DIỄN NÔM :
                    MUỐN VỀ
           Trường Giang sầu nước lửng,
           Muôn dặm muốn về ngang.
           Núi cao ngăn quê cũ ,
           Non non rụng lá vàng !

   Lục bát :
           Trường Giang nước đọng lòng sầu,
           Xa nhà muôn dặm mấy thâu muốn về.
           Núi cao ngăn cách làng quê,
           Muôn chiều lá đổ ủ ê lòng sầu !


                                                 Đỗ Chiêu Đức


2. TUYỆT CÚ của ĐỖ PHỦ :
        Bài thơ nầy được làm vào cuối xuân năm Quảng Đức thứ 2 đời Đường Đại Tôn ( 764 ), lúc bấy giờ, Thi Thánh Đỗ Phủ đang ở Thành Đô ( Tứ Xuyên ), mặc dù tha hương nhưng cuộc sống đã tạm ổn định, nhớ quê nhưng tâm lý đã khá thoải mái.


     
絕句                   TUYỆT CÚ  
  
江碧鳥逾白,     Giang bích thủy du bạch,
  
山青花欲燃。     Sơn thanh hoa dục nhiên.
  
今春看又過,     Kim xuân khan hựu quá,
  
何日是歸年.       Hà nhật thị qui niên ?!
              
杜甫                               Đỗ Phủ


       
CHÚ THÍCH :
      Bài thơ nầy được Thi Thánh Đỗ Phủ làm vào mùa xuân năm Quảng Đức thứ hai đời Đường Đại Tôn. Lúc nầy ông đang tạm cư ở Thành Đô, cuộc sống tạm ổn định, mặc dù xa quê nhưng trong lòng cũng tạm thoải mái bớt day dứt, nên lời thơ cũng nhẹ nhàng gợi cảm hơn.

    BÍCH
: là BIẾC. Ta thường hiểu là XANH thì mới BIẾC. Thật sự BÍCH là chỉ cái sắc ÓNG ÁNH, như Cẩm Thạch  " Lên Nước " thì gọi là BÍCH, bất cứ nó ửng lên màu gì đều là " BÍCH " cả !.  

    DU
là Càng hơn, là Vượt quá.

    DỤC
là Muốn, là Giống Như.

    NHIÊN
là Cháy, Ở đây có nghĩa là Rực Rỡ.

    QUÁ
là Qua, là Đi Qua.

    HÀ
Nghi Vấn Từ, có nghĩa là GÌ, NÀO, SAO... Như : HÀ SỰ là Việc gì ?, HÀ NHÂN là Người Nào?, HÀ CỐ là Cớ Sao ?. Trong câu thơ HÀ NHẬT là Ngày Nào ?

DỊCH NGHĨA :
        Nước của dòng sông càng xanh biếc thì những cánh chim bay lượn trên sông càng trắng hơn thêm, núi càng xanh hơn thì muôn hoa càng như rực rở hơn lên như muốn bốc cháy. Trước mắt ta mùa xuân lại sắp đi qua nữa rồi, không biết là đến năm nào mới có được ngày quay trở lại quê hương đây ?!.


DIỄN NÔM :        

                     TUYỆT CÚ
             Nước biếc chim càng trắng,
             Núi xanh hoa rực hương.
             Nay nhìn xuân lại hết,
             Biết thuở nào hồi hương ?!

 Thất ngôn :


            Trắng xóa cánh chim làn nước biếc,
            Hoa như rực lửa núi càng xanh.
            Mắt trông xuân lại qua lần nữa,
            Quê cũ năm nào lại gặp anh ?!

                                                Đỗ Chiêu Đức
          
3. KIẾN VỊ THỦY TƯ TẦN XUYÊN của SẦM THAM .

        SẦM THAM
岑參 ( 715-770 ), người gốc Nam Dương ( thuộc Tân Dã, tỉnh Hà Nam hiện nay ), sau thuyên cư về Giang Lăng ( Tỉnh Hồ Bắc hiện nay ), đậu Tiến Sĩ năm Thiên Bảo thứ ba năm 30 tuổi. Ông là thi nhân nổi tiếng đời Đường, chuyên về thơ biên tái 7 chữ, giọng thơ hào hùng, sức tưởng tượng phong phú, đầy màu sắc lãng mạn. Ông mất lúc 56 tuổi.

     見渭水思秦川      KIẾN VỊ THỦY TƯ TẦN XUYÊN
           
  渭水東流去,        Vị Thủy đông lưu khứ,
     
何時到雍州。        Hà thời đáo Ung Châu ?
  憑添兩行淚,        Bằng thiêm lưỡng hàng lệ,
      
寄向故園流。        Kí hướng cố viên lưu  !
                 岑參                                    Sầm Tham

       

CHÚ THÍCH :

      VỊ THỦY
渭水:Còn gọi là Vị Hà, từ Cam Túc chảy qua Thiểm Tây đổ vào sông Hoàng Hà ra biển.

      TẦN XUYÊN
秦川:Địa danh xưa, tức tỉnh Thiểm Tây ngày nay. Trong thơ chỉ đất Quan Trung, là một dãi đất ở trung bộ tỉnh Thiểm Tây.

      UNG CHÂU
雍州:Một trong chín Châu ngày xưa, bao gồm một phần của tỉnh Cam Túc và một dãi của tình Thiểm Tây ngày nay.

      CỐ VIÊN
故园:Vườn Cũ, chỉ Cố Hương, nơi được sanh ra và lớn lên.
DỊCH NGHĨA :

              THẤY DÒNG SÔNG VỊ MÀ NHỚ TẦN XUYÊN
     Dòng sông Vị chảy về đông, không biết bao giờ mới đến được xứ Ung Châu quê ta.( Nay ta thương nhớ quê hương mà không về được, nên...) chỉ còn có nước nhỏ thêm hai hàng lệ nhớ quê xuống sông, nhờ nước sông mang hai hàng lệ nhớ thương nầy về với cố hương quê ta mà thôi !

DIỄN NÔM :

             TRÔNG SÔNG VỊ NHỚ TẦN XUYÊN

                   Xuôi đông sông Vị chảy,
                   Ung châu ngang quê nhà.
                   Ta thêm hai hàng lệ,
                   Về tận cố hương xa !
  Gián Cách :
                   Sông Vị chảy về đông,
                   Uông Châu bao giờ đến ?
                   Ta thêm lệ đôi dòng,
                   Gởi cố hương yêu mến !
    Lục Bát :
                  Về đông sông Vị chảy mau,
              Bao giờ mới đến Ung Châu quê nhà ?
                  Nhỏ hai hàng lệ thiết tha,
              Gởi về tận chốn quê xa mịt mùng !

                                                         Đỗ Chiêu Đức

4. TĨNH DẠ TƯ của LÝ BẠCH :

       Bài thơ TĨNH DẠ TƯ của Thi Tiên LÝ BẠCH với lời lẽ mộc mạc, giản dị, nhưng lại rất thực tế, nhân bản, dễ đi sâu vào lòng những người tha hương cô thân chiếc bóng, lòng nhớ quê luôn canh cánh khôn nguôi !

    靜夜思                   TĨNH DẠ TƯ

  床前明月光,          Sàng tiền minh nguyệt quang,
      
疑是地上霜。        Nghi thị địa thượng sương.
  
 舉頭望明月,        Cử đầu vọng minh nguyệt,
     
低頭思故鄉。        Đê đầu tư cố hương !
                
李白                            LÝ BẠCH

        
 
  

  CHÚ THÍCH :
    Chữ
được phát bằng 2 âm TỊNH và TĨNH, nhưng nghĩa thì lại như nhau. TĨNH DẠ 靜夜 : là Trong đêm thanh vắng. Đêm vắng lặng.
    NGHI
: là Nghi Ngờ. Ở đây có nghĩa là NGỠ là , Tưởng là.
    CỬ ĐẦU : là ngước đầu, là ngẩn đầu lên.
    ĐÊ ĐẦU : là Cúi đầu xuống.

 
NGHĨA BÀI THƠ :

                     NỖI NHỚ NHUNG TRONG ĐÊM VẮNG VẺ

       Trước giừơng ta nằm, ánh trăng sáng vằng vặc đang chiếu rọi, ánh trăng huyền ảo mơ màng như có một làn sương mỏng phủ trùm cả đất trời. Trong đêm vắng lặng nầy, ta không sao chợp mắt được. Ngước đầu nhìn lên vầng trăng sáng như thuở nào, nên khi cúi đầu nhìn xuống lại tưởng nhớ đến quê hương ! 

       Tình cảm mộc mạc mà chân thật biết bao, nên chi bài thơ với những từ rất giản dị lại cũng rất dễ đi vào lòng người suốt trên ngàn năm nay !

DIỄN NÔM :    

                     NHỚ QUÊ ĐÊM VẮNG

                 Trước giừơng nhìn trăng sáng,
                 Mông lung ngỡ sương đêm.
                 Ngữa trông vầng trăng bạc,
                 Nhớ quê dạ buồn thêm !
 Lục bát :
                 Trước giừơng nhìn ánh trăng trong,
              Mông lung cứ ngỡ sương lồng bóng mây.
                 Ngữa trông trăng sáng đêm nay,
              Cúi đầu lòng những ai hoài nhớ quê !

                                                  
Đỗ Chiêu Đức