HOÀNG HẠC LÂU và NHỮNG LÂU ĐÀI LIÊN QUAN
Nhân dịch bài thơ " Đăng Hoàng Hạc Lâu " của Cụ Phan Thanh Giản, Tôi muốn giới thiệu sơ lược về ngôi lầu nổi tiếng cổ kim nầy, và những bài thơ, giai thoại liên quan....
Hoàng Hạc Lâu ( HHL ) nằm ở trên Hoàng Hạc Cơ của Xà Sơn thuộc đất Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc. Được xây dựng từ năm Hoàng Võ thứ 2 của nước Đông Ngô thời Tam Quốc ( 223 sau CN ). Theo sách " Nguyên Hòa Quận Huyện Đồ Chí " ghi lại : " Tôn Quyền khi xây Cố thành ở Hạ Khẩu, vì thành tây giáp Trường Giang, góc Giang Nam lại có bờ đá lớn, nên xây lên một lầu cao để quan sát, gọi tên là HHL . Lầu được xây dựng cho mục đích quân sự. ". Nhưng theo sách " Cực Ân Lục " ghi lại, thì HHL là do dòng họ Tân Thị xây lên để làm tửu lâu.
Qua các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trước sau được tu sửa đến 10 lần, nhưng cuối cùng vẫn bị hũy ở đời vua Quang Tự thứ 10 ( 1884 ). Từ đời Bắc Tống cho đến khi bị hũy, HHL từng là Đạo Tràng lớn của Đạo giáo ( Lão giáo ). Là nơi truyền đạo của tiên ông Lữ ( Lã ) Động Tân ( một trong Bát Tiên ), tương truyền, Tổ Sư Lã Động Tân đã cởi hạc thăng thiên trong ngày 20 tháng 5 ở HHL, nên nơi đây trở thành thánh tích của Đạo Giáo từ đó.
Hoàng Hạc Lâu ( HHL ) nằm ở trên Hoàng Hạc Cơ của Xà Sơn thuộc đất Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc. Được xây dựng từ năm Hoàng Võ thứ 2 của nước Đông Ngô thời Tam Quốc ( 223 sau CN ). Theo sách " Nguyên Hòa Quận Huyện Đồ Chí " ghi lại : " Tôn Quyền khi xây Cố thành ở Hạ Khẩu, vì thành tây giáp Trường Giang, góc Giang Nam lại có bờ đá lớn, nên xây lên một lầu cao để quan sát, gọi tên là HHL . Lầu được xây dựng cho mục đích quân sự. ". Nhưng theo sách " Cực Ân Lục " ghi lại, thì HHL là do dòng họ Tân Thị xây lên để làm tửu lâu.
Qua các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh, trước sau được tu sửa đến 10 lần, nhưng cuối cùng vẫn bị hũy ở đời vua Quang Tự thứ 10 ( 1884 ). Từ đời Bắc Tống cho đến khi bị hũy, HHL từng là Đạo Tràng lớn của Đạo giáo ( Lão giáo ). Là nơi truyền đạo của tiên ông Lữ ( Lã ) Động Tân ( một trong Bát Tiên ), tương truyền, Tổ Sư Lã Động Tân đã cởi hạc thăng thiên trong ngày 20 tháng 5 ở HHL, nên nơi đây trở thành thánh tích của Đạo Giáo từ đó.
黄鹤樓 HOÀNG HẠC LÂU
昔人已乘黃鶴去, Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
此地空餘黃鶴樓。 Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
黃鶴一去不復返, Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
白雲千載空悠悠。 Bạch vân thiên tải không du du
晴川歷歷漢陽樹, Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thọ
芳草萋萋鸚鵡洲。 Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
日暮鄉關何處是, Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu
崔 颢 Thôi Hiệu
昔人已乘黃鶴去, Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
此地空餘黃鶴樓。 Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu
黃鶴一去不復返, Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
白雲千載空悠悠。 Bạch vân thiên tải không du du
晴川歷歷漢陽樹, Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thọ
芳草萋萋鸚鵡洲。 Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
日暮鄉關何處是, Nhật mộ hương quan hà xứ thị
煙波江上使人愁。 Yên ba giang thượng sử nhân sầu
崔 颢 Thôi Hiệu
Bài diễn nôm Lục Bát của Thi sĩ Tản Đà :
Hạc vàng ai cởi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng Lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !...
Hạc vàng ai cởi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng Lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai !...
Quả là cảnh tình hợp nhất, tình cảnh tương liên, hòa hợp thành một bức tranh tuyệt tác... Thảo nào mà khi đến đây, nhìn lên vách thấy bài thơ nầy, Thi Tiên Lý Bạch đã phải quẳng bút mà than rằng :
登金陵鳳凰台 Đăng KIM LĂNG PHỤNG HOÀNG ĐÀI
鳳凰台上鳳凰游, Phụng Hoàng Đài thượng Phụng hoàng du
鳳去台空江自流。 Phụng khứ đài không, giang tự lưu
吳宮花草埋幽徑, Ngô cung hoa thảo mai u kính
晉代衣冠成古邱。 Tấn đại y quan thành cổ khâu
三山半落青天外, Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
二水中分白鷺洲。 Nhị thủy trung phân Bạch lộ châu
總為浮雲能蔽日, Tổng vị phù vân năng tế nhật
長安不見使人愁。 Trường An bất kiến sử nhân sầu !
Không riêng gì Lý Bạch, còn có rất nhiều thi sĩ đương thời ngấm ngầm ganh tỵ với bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Họ không ganh ghét, mà chỉ muốn chứng tỏ tài năng của bản thân mình, vì địa vị và tài hoa của họ cũng không thua Thôi Hiệu chút nào cả.!. Trong số những thi sĩ " ngấm ngầm " nầy, ta thấy có Vương Xương Linh, tác giả của bài " Khuê Oán " nổi tiếng với " Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu !....". Ông đã làm bài " Vạn Tuế Lâu " với đủ cả âm hưởng và vần điệu của " Hoàng Hạc Lâu ". Nào, ta hãy cùng đọc và tìm hiểu bài thơ nầy nhé !....
江上巍巍萬歳楼。 Giang thượng nguy nguy Vạn Tuế Lâu
不知経歴幾千秋。 Bất tri kinh lịch kỷ thiên thu
年年喜見山長在。 Niên niên hỉ kiến sơn trường tại
日日悲看水独流。 Nhật nhật bi khan thủy độc lưu
猿狖何曾離暮嶺。 Viên dứu hà tằng ly mộ lĩnh
鹭鷀空自泛寒洲。 Lô tư không tự phiếm hàn châu
誰堪登望雲煙裏。 Thùy kham đăng vọng vân yên lý
向晩茫茫發旅愁。 Hướng vãn man man phát lữ sầu
王昌齡 Vương Xương Linh.
Nhởn tiền hữu cảnh đạo bất đắc 眼前有景道不得
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu 崔颢题詩在上頭
Nghĩa :
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu 崔颢题詩在上頭
Nghĩa :
Trước mắt có cảnh mà nói chẳng nên lời, vì Thôi Hiệu đã đề thơ ở phía trên đầu ta rồi ! Vì Lý biết chắc rằng, nếu mình có miễn cưỡng làm thơ, thì chắc chắn chẳng bao giớ bằng được bài thơ mà Thôi Hiệu đã làm, nên thôi. Nhưng nỗi lòng ấm ức vẫn cứ mãi âm ĩ trong tâm, cho nên khi đến đất Kim Lăng, lên ngắm cảnh trên Phụng Hoàng Đài, ông mới xúc cảnh sinh tình, mà làm nên bài thơ " Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài " rất xuất sắc, gieo vần và âm hưởng đều tương tự như bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Phải chăng để giải tỏa đi cái ấm ức bấy lâu nay ở trong lòng ?. Ta hãy cùng đọc bài thơ này nhé :
登金陵鳳凰台 Đăng KIM LĂNG PHỤNG HOÀNG ĐÀI
鳳凰台上鳳凰游, Phụng Hoàng Đài thượng Phụng hoàng du
鳳去台空江自流。 Phụng khứ đài không, giang tự lưu
吳宮花草埋幽徑, Ngô cung hoa thảo mai u kính
晉代衣冠成古邱。 Tấn đại y quan thành cổ khâu
三山半落青天外, Tam sơn bán lạc thanh thiên ngoại
二水中分白鷺洲。 Nhị thủy trung phân Bạch lộ châu
總為浮雲能蔽日, Tổng vị phù vân năng tế nhật
長安不見使人愁。 Trường An bất kiến sử nhân sầu !
Phụng Hoàng Đài ở Kim Lăng.
Diễn nôm :
Phụng Hoàng Đài trước phụng hoàng chơi
Phụng đã biệt tăm, sông vẫn trôi
Hoa cỏ cung Ngô đà vắng vẻ
Y trang nhà Tấn cũng xa rồi
Ba núi lưng trời như ẩn hiện
Hai dòng sông nước rẻ đôi nơi
Cũng bởi mây mù che mặt nhật
Trường An chẳng thấy dạ bồi hồi !
Phụng Hoàng Đài trước phụng hoàng chơi
Phụng đã biệt tăm, sông vẫn trôi
Hoa cỏ cung Ngô đà vắng vẻ
Y trang nhà Tấn cũng xa rồi
Ba núi lưng trời như ẩn hiện
Hai dòng sông nước rẻ đôi nơi
Cũng bởi mây mù che mặt nhật
Trường An chẳng thấy dạ bồi hồi !
So với " Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu " thi bài nầy ngụ ý xâu xa hơn, thâm trầm và có chiều sâu hơn, kỹ thuật cũng nghiêm cẩn hơn, nhưng thơ của Thôi Hiệu lại khoáng đạt hơn, trực tả cảnh trí trước mắt, hơi thơ liền lạc đi một mạch từ đầu đến cuối, và " đi " thẳng vào lòng người đọc !.... Hai bài đều có cái hay riêng, nhưng sao ta vẫn thấy Hoàng Hạc Lâu như vẫn thanh thoát và gợi cảm hơn... Có phải chăng... tại Hoàng Hoạc Lâu gần gũi, thân thiết với người đọc hơn là với Phụng Hoàng Đài ?!!!....
Không riêng gì Lý Bạch, còn có rất nhiều thi sĩ đương thời ngấm ngầm ganh tỵ với bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Họ không ganh ghét, mà chỉ muốn chứng tỏ tài năng của bản thân mình, vì địa vị và tài hoa của họ cũng không thua Thôi Hiệu chút nào cả.!. Trong số những thi sĩ " ngấm ngầm " nầy, ta thấy có Vương Xương Linh, tác giả của bài " Khuê Oán " nổi tiếng với " Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu !....". Ông đã làm bài " Vạn Tuế Lâu " với đủ cả âm hưởng và vần điệu của " Hoàng Hạc Lâu ". Nào, ta hãy cùng đọc và tìm hiểu bài thơ nầy nhé !....
萬歳楼 VẠN TUẾ LÂU
江上巍巍萬歳楼。 Giang thượng nguy nguy Vạn Tuế Lâu
不知経歴幾千秋。 Bất tri kinh lịch kỷ thiên thu
年年喜見山長在。 Niên niên hỉ kiến sơn trường tại
日日悲看水独流。 Nhật nhật bi khan thủy độc lưu
猿狖何曾離暮嶺。 Viên dứu hà tằng ly mộ lĩnh
鹭鷀空自泛寒洲。 Lô tư không tự phiếm hàn châu
誰堪登望雲煙裏。 Thùy kham đăng vọng vân yên lý
向晩茫茫發旅愁。 Hướng vãn man man phát lữ sầu
王昌齡 Vương Xương Linh.
Thích nghĩa :
Vạn Tuế Lâu cao cao ngất nghểu trên bờ sông Trường Giang, không biết là trải qua mấy ngàn thu rồi. Nhưng, vẫn còn mừng vì mỗi năm đều trông thấy núi xanh vẫn còn đó, chỉ buồn là mỗi ngày đều thấy dòng nước âm thầm lặng lẽ trôi. Bầy khỉ vượn vẫn luyến lưu chưa từng rời khỏi đĩnh núi mỗi khi chiều xuống, cũng như đàn cò kia vẫn luôn luôn bay lượn vô tư lự trên bãi sông lạnh lẽo. Ai là người có thể leo lên đứng trên lầu cao nầy, nhìn vào trong khói mây mờ mịt mỗi buổi chiều, mà không thấy lòng trổi dậy một nỗi buồn lữ thứ tha hương ?!
Vạn Tuế Lâu cao cao ngất nghểu trên bờ sông Trường Giang, không biết là trải qua mấy ngàn thu rồi. Nhưng, vẫn còn mừng vì mỗi năm đều trông thấy núi xanh vẫn còn đó, chỉ buồn là mỗi ngày đều thấy dòng nước âm thầm lặng lẽ trôi. Bầy khỉ vượn vẫn luyến lưu chưa từng rời khỏi đĩnh núi mỗi khi chiều xuống, cũng như đàn cò kia vẫn luôn luôn bay lượn vô tư lự trên bãi sông lạnh lẽo. Ai là người có thể leo lên đứng trên lầu cao nầy, nhìn vào trong khói mây mờ mịt mỗi buổi chiều, mà không thấy lòng trổi dậy một nỗi buồn lữ thứ tha hương ?!
Diễn nôm :
Mặc dù không so được với Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, và Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài cũa Lý Bạch, nhưng đây cũng là một bài thơ hay tả lại cảnh trí của một Danh Lâu thuở xưa ở trên Tây Nam thành của Phủ Trấn Giang thuộc Tỉnh Giang Tô.
Còn rất nhiều thơ tả lại " Tứ Đại Danh Lâu " 四大名楼 ( Đằng Vương Các , Hoàng Hạc Lâu, Nhạc Dương Lâu và Phù Dung lâu ) . Nhưng vì bài viết đã quá dài và ý của bài nầy là chỉ muốn đề cập đến những bài thơ có liên quan đến Hoàng Hạc Lâu mà thôi....
Xin hẹn lại bài kế tiếp. Trân trọng. Đ C Đ
Ngất nghểu trên sông Vạn Tuế Lầu
Mấy ngàn năm cũ vẫn cao cao
Mừng trông núi biếc còn trơ mãi
Buồn ngắm sông côi vẫn chảy mau
Lũ vượn luyến lưu chiều núi thẳm
Đàn cò bay lượn bãi sông sâu
Nào ai lên gác trông mây khói
Chiều xuống mênh mông lữ khách sầu !
Mấy ngàn năm cũ vẫn cao cao
Mừng trông núi biếc còn trơ mãi
Buồn ngắm sông côi vẫn chảy mau
Lũ vượn luyến lưu chiều núi thẳm
Đàn cò bay lượn bãi sông sâu
Nào ai lên gác trông mây khói
Chiều xuống mênh mông lữ khách sầu !
Mặc dù không so được với Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, và Đăng Kim Lăng Phụng Hoàng Đài cũa Lý Bạch, nhưng đây cũng là một bài thơ hay tả lại cảnh trí của một Danh Lâu thuở xưa ở trên Tây Nam thành của Phủ Trấn Giang thuộc Tỉnh Giang Tô.
Còn rất nhiều thơ tả lại " Tứ Đại Danh Lâu " 四大名楼 ( Đằng Vương Các , Hoàng Hạc Lâu, Nhạc Dương Lâu và Phù Dung lâu ) . Nhưng vì bài viết đã quá dài và ý của bài nầy là chỉ muốn đề cập đến những bài thơ có liên quan đến Hoàng Hạc Lâu mà thôi....
Xin hẹn lại bài kế tiếp. Trân trọng. Đ C Đ
Keine Kommentare:
Kommentar veröffentlichen